Là các phương pháp tập
để tăng khí trong cơ thể. Vận động gân cơ xương, lục phủ ngũ tạng
nhằm thông đường đi cho khí trong cơ thể. Các bài tập như: Dịch cân kinh,
Ngũ cầm hí … Việc vận động và hít thở tập trung cho khai thông kinh
mạch. Cho nên người học phải hiểu vấn đề ngay từ đầu tập mới có kết
quả. Việc hít thở trong khí công lúc tập khí công động , lúc tĩnh công
thì chú tâm nhiều đến cách vận khí.
"Khí" người Trung
Hoa phát âm là "Chi" hay "Qi", "Ki" ở người Nhật
Bản, "Ghee" ở người Đại Hàn và "Prana" ở người Ấn Độ.
"Khí" nghĩa thông thường có liên quan đến "Không khí" hoặc
"Chất Hơi", một chất không hình, dễ di động, dễ phân tán, dễ tích tụ,
tính co dãn có thể tạo nên sức ép lớn mạnh, tùy theo số lượng của nó.
"Công" do chữ
"công phu", người Trung Hoa phát âm là "Kungfu", có nghĩa
là việc làm được thực hiện trong một số lượng thời gian.
Do đó, "khí công"
có thể hiểu là một tiến trình hít thở không khí, để gia tăng nguồn sinh lực của
thể chất lẫn tinh thần trong con người. Trong đó, "dưỡng khí"
(oxygen)được hấp thụ qua không khí, và "thán khí" (carbon dioxide) được
loại trừ ra ngoài cơ thể. Đây là hai yếu tố chính yếu trong việc gia tăng nguồn
sinh lực cơ thể.
Trong võ thuật cổ truyền
đông phương, khí công còn được gọi là "nội công", một công phu tập
luyện "tán tụ nội khí", triển khai tối đa sức mạnh thể chất lẫn tinh
thần, để áp dụng vào kỹ thuật chiến đấu, cũng như gia tăng sức khỏe thân tâm.
Lược Sử Khí Công:
Trong ý nghĩa quân bình hơi
thở, khí công được bắt nguồn từ thuở xa xưa, từ khi có sự hiện diên loài người
trên quả đất này. Căn cứ vào văn hóa cổ truyền đông phương, khí công đã được áp
dụng qua các phương pháp thực hành, và triết lý dẫn đạo, hầu hết, trong ba môn
học: Y học, Đao học, và Võ học.
Theo y như Hoàng Đế Nội Kinh
(2697 – 2597 B.C. trước Tây Lịch), và sách Dịch Kinh (2400 B.C. trước Tây lịch),
nền tảng Đông Y học được dựa trên lý thuyết nguồn khí lực, Âm Dương và Ngũ Hành
để lý giải, điều trị bệnh tật và tăng cường sức khỏe con người.
Vào thời nhà Thương (1783 –
1122 B.C trước Tây lịch), người Trung Hoa đã biết dùng những dụng cụ bén nhọn bằng
đá, để châm chích vào các huyệt đạo trên cơ thể, nhằm gây ảnh hưởng đến sự dẫn
truyền nguồn khí lực, trong việc trị bệnh cho con người.
Vào thế kỷ thứ 6 trước Tây lịch,
trong cổ thư Đạo Đức Kinh, tác giả Lão Tử, một nhà hiền triết Trung Hoa, đã đề
cập đếnn vai trò hơi thở trong kỹ thuật luyện khí, để giúp con người kéo dài tuổi
thọ. Sử liệu Trung Hoa cũng cho thấy rằng các phương pháp luyện khí đã có nhiều
tiến bộ, vào thời Xuân Thu và Chiến Quốc (770 – 221 B.C. trước Tây lịch). Sau
đó, trong thời nhà Tần đến nhà Hán (221 B.C. trước Tây lịch đến 220 A.C. sau
Tây lịch), một số sách dạy luyện khí công đã được biên soạn bởi nhiều vì y sư,
thiền sư và đạo sĩ. Các phương pháp truyền dạy tuy có khác nhau, nhưng vẫn có
chung những nguyên lý vận hành khí lực trong cơ thể.
Vào thế kỷ thứ ba sau Tây lịch,
nguyên lý về khí lực đã được minh chứng hiệu quả bởi y sư Hoa Đà, qua việc áp dụng
kỹ thuật châm cứu, để gây nên tình trạng tê mê cho bệnh nhân, trong lúc giải phẫu.
Cũng như, ông đã sáng chế những động tác tập luyện khí "Ngũ Cầm Hí",
dựa theo tính chất và động tác của 5 loại thú rừng như: Cọp, Nai, Khỉ, Gấu và
Chim.
Vào năm 520 – 529 sau Tây lịch,
tổ sư Bồ Đề Đạt Ma, người Ấn Độ, tại Tung Sơn Thiếu Lâm Tự, tỉnh Hồ Nam, ngài
đã soạn ra sách Dịch Cân Kinh, đ dạy các môn đồ phát triển nguồn khí lực, tăng
cường sức khỏe trên đường tu đạo, cũng như, thân thể được cường tráng, gia tăng
sức mạnh trong việc luyện võ.
Về sau, dựa vào nguyên lý
khí lực này, các đệ tử Thiếu Lâm đã sáng chế thêm những bài tập khí công như:
Bát Đoạn Cẩm, Thiết Tuyến Nội Công Quyền, Nội Công Ngũ Hình Quyền...
Theo truyền thuyết, vào triều
đại nhà Tống (950 – 1279 sau T.L.), tại núi Võ Đang, đạo sĩ Trương Tam Phong
sáng chế bài nội công luyện khí Thái Cực Quyền, gồm những động tác giúp người tập
luyện cường kiện sức khỏe thân tâm.
Về sau, có rất nhiều bài tập
khí công được sáng chế bởi nhiều võ phái khác nhau. Dần dần, các võ phái nhỏ,
ít người biết đến, đều bị mai một, cùng với những phương pháp truyền dạy bị
lãng quên trong quá khứ. Đến nay, một số ít các bài võ luyện khí công còn được
ghi nhận qua một số tài liệu hạn hẹp của Trung Hoa như: Dịch Cân Kinh, Bát Đoạn
Cẩm, Thiết Tuyến Nội Công Quyền, Nội Công Ngũ Hình Quyền, Thái Cực Quyền thuộc
ba hệ phái của Trần Gia, Dương Gia và Vũ Gia, Bát Quái Quyền, Hình Ý Quyền, Lục
Hợp Bát Pháp Quyền...
III. Triết Lý Khí Công
A. Vũ trụ quan
Theo quan niệm Đông phương,
khởi nguyên sự hình thành của vũ trụ, vạn vật được bắt nguồn từ một khối
"Khí" đầu tiên gọi là "Thái Cực", bành trướng vô cùng tận.
Sau tiến trình nội tại, khối "Khí" này được phân thành hai nhóm khí đối
nghịch nhau: "Khí Âm" và "Khí Dương", được gọi là "Lưỡng
Nghi". Hai nhóm "Khí Âm" và "Khí Dương" này chạm vào
nhau, để sanh ra khí thứ ba, mà Lão Tử gọi là "Xung Khí". Từ đó, vũ
trụ, vạn vật được hình thành. Đạo đức Kinh có ghi: "Đạo sinh nhất, nhất
sinh nhị, nhị sinh tam, tam sinh vạn vật, vạn vật phụ âm nhi bão dương, xung
khí dĩ vi hòa." Học giả Trương Hoành Cừ có nói:
"- Khí tụ lại thành
hình, khí tán đi hình loại, muôn vật trở lại Thái Hư." Vạn vật biến chuyển,
thay đổi không ngừng theo định luật phổ quát mà Kinh Dịch có ghi: "- Sinh,
Trưởng, Thâu, Tàng." Cũng như, Phật Giáo quan niệm: "-Sinh, Trụ, Dị
Diệt." Do đó, khí là nguồn gốc, là sinh lực của vạn vật và vũ trụ.
Hai tính chất căn bản là Âm
và Dương của khí được quân bình, nằm trong ba loại khí tổng quát: Thiên Khí, Địa
Khí và Nhân Khí.
Thiên Khí đến từ vũ trụ
thiên nhiên, với lực sống động vĩ đại huyền diệu, giúp cho đại vũ trụ thiên
nhiên được vận chuyển trong một trật tự tuần hoàn. Thí dụ: Mặt trăng, mặt trời,
thái dương hệ, tất cả bầu trời không gian vô tận...đều là những nguồn chứa
thiên khí. Thiên khí đóng một vai trò quan trọng, ảnh hưởng lớn đến thời tiết,
khí hậu và thiên tai. Thí dụ như những hiện tượng gió thổi, mưa rơi, bão tố, sấm
sét...d xảy ra đều nhằm mục đích tái tạo sự quân bình Âm Dương trong thiên khí.
"Địa Khí đến từ quả đất,
cũng như từ sự thấm những nhuần, hoặc ảnh hưởng tác dụng của thiên khí trên quả
đất. Địa khí còn được sinh ra bởi từ trường của quả đất, cũng như, hơi nóng được
phát ra từ trong lòng đất. Những vùng đất thường xảy ra núi lửa, hay những đường
rạn nứt trong lòng đất, để tạo nên những tai họa động đất, chính làn nơi phát
ra nguồn địa khí. Sự di chuyển của địa khí được thể hiện qua các hiện tượng
như: đất cát di chuyển theo dòng nước lũ, để mang bồi đắp tạo nên những nơi cồn
đảo. Trái lại, những vùng mất đất sẽ trở thành sông sâu, lớn rộng. Mặt khác,
trong lúc có nhiều mưa, mặt đất trở nên đầy nước ngập lụt. Trái lại, khi khí trời
khô, nóng gắt, hạn hán, mặt đất trở nên khô cằn, nứt nẻ. Tất cả những hiện tượng
nói trên đều tạo nên sự thay đổi địa khí, do bởi sự mất quân bình âm dương tính
trong địa khí.
"Nhân Khí" là sinh
lực con người.`con người là một tiểu vũ trụ, nằm trong sự chi phối của đại vũ
trụ thiên nhiên. Do đó, nhân khí phải chịu ảnh hưởng vào thiên khí và địa khí.
B. Nhân Sinh Quan
Con người khi còn là thai
nhi trong bụng mẹ, được nuôi dưỡng bằng nguồn sinh lực (Nhân Khí) của bà mẹ,
qua đường cuống rốn thai nhi. Sau khi chào đời, qua tiếng khóc đầu tiên, hài
nhi biết hít thở, hấp thụ nguồn Thiên Khí từ bên ngoài. Nguồn thiên khí đầu
tiên này, khi được vào trong cơ thể hài nhi, biến thành nguồn "Dinh
Khí", và tác dụng làm nguồn sinh lực (Nhân Khí) của bà mẹ sãn có trong hài
nhi, trở thành "Vệ Khí" được thể hiện bởi hai dòng: khí nóng (Dương)
và khí lạnh (Âm). Dòng khí nóng (Dương) chạy lên phần trên cơ thể đến các bộ phận:
tim gan, phổi và não bộ trong khi dòng khí lạnh (Âm) chạy xuống phần dưới cơ thể,
đến các bộ phận: bụng dưới, thận, sinh dục và hai chân. Tiếp theo, sự sinh tồn
của hài nhi cần phải được nuôi dưỡng bởi nguồn Nhân Khí từ bên ngoài, do ảnh hưởng
của Thiên Khí và Địa Khí, qua môi trường không khí trong sạch , nước uống và thực
phẩm (đọn vật và thực vật). Nguồn Nhân Khí (sinh lực) này được lưu chuyển điều
hòa, trong những đường ống ngang dọc của hệ thống Kinh, Mạch, Lạc, Huyệt, để
liên hệ đến các tạng phủ (các bộ phân như: Tim, phổi, bao tử, lá mía, ruột già,
ruột non, gan, thận, túi mật và bàng quang...)
Vớ tuổi thọ tăng dần, các đường
ống dẫn khí lực này, càng ngày trở nên trì trệ, yếu kém, trong việc cung cấp
sinh lực (Nhân Khí) nuôi dưỡng cơ thể, do đó, sức khỏe con người dễ trở nên suy
yếu, bệnh tật, nếu không được bồi dưỡng đúng mức.
Để tái tạo sức khỏe bình thường,
việc khai thông hệ thống kinh mạch , cũng như, quân bình Ân Dương tính trong
nguồn sinh lực (nhân khí) rất cần thiết cho cơ thể con người. Ơû điểm này, Đông
Y Học đã áp dụng một trong những trị liệu pháp như: dược phẩm (thuốn hóa học ở
các lá, thân và rễ cây), Châm cứu pháp, Án ma pháp (thuật xoa bóp trên các kinh
mạch, và ấn ép trên các huyệt đạo), Khí công trị liệu (phương pháp hô hấp) và tể
dục dưỡng sinh (áp dụng các động tác vận chuyển để đả thông kinh mạch)...
Trong phép dương sinh, người
ta cần phải biết sống hòa hợp với luật thiên nhiên, để khia thác tối đa lợi thế
của Thiên Khí và Địa Khí, trong việc giữ quân bình âm dương tính cho Nhân Khí của
con người. Từ đó, sức đề kháng trong cơ thể được kiện toàn, sẵn sàng tiêu trừ
các mầm móng bệnh chứng, có thể xảy ra cho con người. Ngoài ra, viện tập luyện
khí công rất ích lợi, giúp cho Nhân Khí được điều hòa, làm chậm sự thoái hóa của
các tế báo trong cơ thể, cũng như, điều hợp thuận lợi với Thiên Khí và Địa Khí
từ bên ngoài.
IV.Phương Thế Thực Hành
Trong khí công gồm có ba loại
thở căn bản: thở sâu (hay thở thấp, hoặc thở Đan Điền), thở Ngực (hay thở trung
bình) và thở cao. Để thực tập các bài khí công, học viên có thể áp dụng một
trong ba tư thế chánh yếu như: thế đứng, thế ngồi và thế nằm. Trong mổi tư thế
chánh này còn được chia ra kàm nhiều tư thế phụ như sau:
Với tư thế đứng còn có thế đứng
tự nhiên, thế đứng chân trước chân sau, và thế đứng trung bình tấn (hai chân
dang rộng ra hai ben trái phải). Với tư thế ngồi gồm có tư thế ngồi tréo chân
như: ngồi Kiết Già, ngồi Bán Già, ngồi Xếp Bằng (ngồi tréo tự nhiên) và ngồi quỳ
gối.
Với tư thế nằm gồm có nằm thẳng
người với lưng tựa phía dưới.
Trong các tư thế đứng, ngồi,
và nằm, tư thế đứng mang lại nhiều ích lợi hơn. Cho nên, các tư thế đứng đã đã
được áp dụng tối đa trong các bài tập khí công của quyền thuật gia. Sau đây là
những ích lợi của tư thế đứng:
- Tư thế đứng rất thuận tiện,
khi tập ở những nơi công cộng,ngoài trời, nơi có không khí trong lành như: công
viên, đồng cỏ, rừng cây, bờ hồ, bờ sông, bờ biển, và các vùng ngoại ô....
- Tư thế đứng còn giúp cho
máu lưu thông dễ dàng trong hệ thống tuần hoàn. Do đó, nguồn khí lực dễ chuyển
dẫn đến các bộ phận trong khắp cơ thể.
- Ngoài ra, tư thế đứng
tránh được tình trạng ru ngủ như ở hai tư thế ngồi và nằm. Cho nên, học viên có
đủ thời gian hoàn tất việc tập luyện.
V. Làm cách nào có thể đạt
được khí cảm (cảm giác về khí trong cơ thể)?
Ta hãy xét một thanh nam
châm. Ban đầu nó cũng chỉ là một thanh thép bình thường, các điện tích trong nó
không có trật tự, chuyển động hỗn loạn, triệt tiêu năng lượng của nhau. Sau khi
đặt nó vào trong từ trường với một khoảng thời gian nhất định, dưới tác dụng của
lực từ, các điện tích sẽ được sắp xếp có trật tự. Khi bỏ thanh thép ra khỏi từ
trường, chính sự trật tự của các điện tích sẽ tạo ra một từ trường mới (là sự tổng
hợp năng lượng của các điện tích). Thanh thép đã trở thành nam châm.
Đối với cơ thể, bình thường
thì năng lượng sống tản mát, không trật tự, thậm chí triệt tiêu nhau. Thông qua
qua trình luyện tập, lặp đi lặp lại một trạng thái nào đó (có thể là tư thế, động
tác, hơi thở...), cuộc sống dần có quy luật, cơ thể cũng dần đạt được trật tự,
trường năng lượng của cơ thể trở nên tập trung hơn, hỗ trợ lẫn nhau. Năng lượng
vì thế cũng trở nên mạnh hơn (do sự tổng hợp của các năng lượng tản mát trong
cơ thể), tác động vào hệ thần kinh rõ rệt hơn, cho con người ta cảm giác về
khí.
Nhiều người sau một thời
gian tập luyện, đạt được khí cảm, vận khí dễ dàng, cho rằng nội lực đã thâm hậu.
Thực ra cảm giác khí và nội lực mạnh hay yếu là hai vấn đề khác nhau. Việc đạt
được khí cảm thì dù người khoẻ hay yếu, cứ kiên trì tập luyện sẽ đạt được. Còn
nội lực mạnh phải gắn liền với một cơ thể khoẻ mạnh.
Nội khí đầy đủ, mạnh mẽ sẽ
làm tăng cường khả năng trao đổi chất giữa máu với tế bào, khiến các tế bào hoạt
động tốt, cơ thể trở nên khoẻ mạnh. Cơ thể khoẻ mạnh sẽ sinh ra nhiều nội khí,
nhiều hồng cầu, tế bào, khả năng trao đổi chất giữa chúng lại được tăng cường...
cứ như vậy, tích luỹ qua nhiều năm tháng, công phu sẽ ngày càng thâm hậu.
Việc luyện tập khí công
không thể tách rời với các hoạt động hàng ngày của cuộc sống: ăn, ngủ, giải
trí, làm việc phải điều độ, phù hợp với từng người.
0 comments:
Độc giả mới bình luận